Nợ công của Việt Nam vẫn tăng nhanh (Thanh Phương-RFI)
Lẽ ra các doanh nghiệp Nhà
nước phải là nguồn tăng thu và cải thiện nợ công, thì các doanh nghiệp
Nhà nước hiện nay lại đóng góp phần đáng kể vào việc tăng nợ công, tăng
gánh nặng lên ngân sách và tăng gánh nặng trả nợ đối với chính phủ.
Báo cáo Đánh giá về chi tiêu công Việt Nam do
Chính phủ Việt Nam phối hợp với Ngân Hàng Thế Giới thực hiện và được
công bố vào đầu tháng 10 vừa qua cho thấy, tỷ lệ nợ công trên tổng sản
phẩm nội địa GDP của Việt Nam đã tăng mạnh trong những năm gần đây, từ
51,7% năm 2010 lên 61% năm 2015. Báo cáo này cho rằng vấn đề đáng lo
ngại là Việt Nam nằm trong số các quốc gia có tỷ lệ nợ trên GDP tăng
nhanh nhất thế giới, khoảng 10% trong 5 năm qua.
Ngân
Hàng Thế Giới cảnh báo, nếu xu hướng này vẫn tiếp diễn, Việt Nam sẽ
phải đối mặt với những quan ngại nghiêm trọng về bền vững tài khóa. Lời
cảnh báo này không thừa, vì theo số liệu mới nhất của bộ Tài Chính, tính
đến năm 2016, nợ công của Việt Nam đã tiếp tục tăng lên đến 64,7% GDP,
tức là gần ngưỡng báo động 65%.
Với mức tăng nhanh như
vậy, gánh nặng nợ công có thể sẽ kềm hãm mức tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam, đó là điều mà chuyên gia kinh tế, tiến sĩ Lê Đăng Doanh muốn
cảnh báo khi trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ:
RFI: Thưa ông Lê Đăng Doanh, tỷ lệ nợ công của Việt Nam trên thực tế là như thế nào?
TS Lê Đăng Doanh: Vừa
rồi thì Ngân Hàng Thế Giới có báo cáo về tình hình tài chính và nợ
công. Ngân Hàng Phát Triển Châu Á cũng có báo cáo về tình hình ngân sách
và nợ công. Cả hai báo cáo đều thống nhất ở một điểm là nợ công của
Việt Nam đã lên đến mức trần có thể chấp nhận được là 65% GDP và tốc độ
tăng nợ công là rất nhanh. Họ khuyến cáo là cần phải có những biện pháp
để giải quyết, nếu không thì sẽ dẫn đến những tình huống phức tạp.Tôi
hoàn toàn nhất trí rằng tình hình nợ công của Việt Nam là phức tạp và
mức độ tăng nợ công lên rất nhanh.
Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản Việt
Nam vào tháng 11/2016 đã ra nghị quyết 07 về tái cơ cấu ngân sách và
giải quyết vấn đề bội chi. Cho đến nay, việc giải quyết vẫn chủ yếu là ở
bộ Tài Chính. Có nhiều dự kiến là sẽ tăng thu thuế, như tăng phí môi
trường trong xăng dầu từ 3.000 đồng lên 8.000/lít, tăng thuế giá trị gia
tăng VAT, rồi đánh thuế vào bia, nước ngọt, rồi thêm các loại thuế và
phí khác.
Còn về việc giảm chi và tiến tới cân bằng ngân sách để
giảm nợ công thì cho tới nay chưa có bước đi và kế hoạch cụ thể để giảm
các bộ máy, giảm sự trùng lặp, sự cồng kềnh và không có các biện pháp để
giảm bội chi ngân sách và kiểm soát nợ công.
RFI:Thưa
ông Lê Đăng Doanh, trong vấn đề nợ công thì trách nhiệm của các doanh
nghiệp Nhà nước là như thế nào? Bởi vì có những doanh nghiệp Nhà nước
làm ăn thua lỗ, mà Nhà nước vẫn phải tiếp tục gánh?
TS Lê Đăng Doanh: Rất
tiếc là các doanh nghiệp Nhà nước đã đóng góp phần quan trọng vào việc
tăng nợ công. Chúng ta đều biết là có 12 dự án đầu tư không hiệu quả và
hiện nay cần phải xử lý ở chổ bộ Công Thương. Ngoài ra, bộ Tài Chính đã
báo cáo có đến 72 dự án đầu tư khác của các doanh nghiệp Nhà nước cũng
đang có vấn đề và có thể gây thua lỗ.
Lẽ ra các doanh nghiệp Nhà
nước phải là nguồn tăng thu và cải thiện nợ công, thì các doanh nghiệp
Nhà nước hiện nay lại đóng góp phần đáng kể vào việc tăng nợ công, tăng
gánh nặng lên ngân sách và tăng gánh nặng trả nợ đối với chính phủ.
RFI: Một
lý do khác phải chăng cũng là vì Việt Nam nay đã là một quốc gia có thu
nhập trung bình, nên không còn được hưởng những khoản vay ưu đãi như
trước đây nữa?
TS Lê Đăng Doanh: Theo quy
định thì một khi đã ra khỏi ngưỡng là một nước nghèo để trở thành quốc
gia có thu nhập trung bình, như Việt Nam hiện nay có thu nhập bình quân
tính theo đầu người khoảng 2.200 đôla/năm, thì những ưu đãi về vay vốn
với lãi suất thấp và có thời gian ân hạn dài, khoảng 10 năm, sẽ không
còn. Việt Nam nay phải vay với lãi suất cao hơn và ân hạn cũng ngắn hơn.
Điều
đó đòi hỏi là nếu vay vốn, thì Việt Nam phải tổ chức đầu tư một cách
rất có hiệu quả, để nhanh chóng đưa đồng vốn đó vào sản xuất, kinh doanh
có lãi, rồi lấy số lãi đó trả được nợ cũng như lãi suất đã vay của các
tổ chức tín dụng khác.
RFI:Tức là trong trường hợp của Việt Nam thì có nguy cơ là lãi mẹ đẻ lãi con khiến cho mức nợ tăng theo?
TS Lê Đăng Doanh:
Vâng. Việt Nam nay phải bán trái phiếu chính phủ ở thị trường trong
nước và với một lãi suất khá là cao, 8 hoặc 9%. Nguồn thu của việc bán
trái phiếu được dùng để trả lãi cho nợ cũ và trả một phần vốn vay, chứ
không trả được hết. Vì vậy nợ mới cộng với một phần nợ cũ chưa trả được
làm cho tốc độ nợ công tăng nhanh lên.
Cũng phải lưu ý rằng số nợ
công được công bố ở đây chủ yếu là nợ của chính phủ, chứ nợ của doanh
nghiệp Nhà nước chưa được cộng đầy đủ vào đấy. Chúng ta đều biết là theo
thông lệ quốc tế, nếu doanh nghiệp Nhà nước vay mà không trả được, bên
chủ nợ có thể kiện ra tòa án hoặc trọng tài. Nếu như không trả nợ được
thì họ có thể tạm thời tịch biên một máy bay, một tàu thủy, hoặc một tài
sản nào đó của Việt Nam để gây áp lực buộc Việt Nam trả nợ.
Vì
vậy, dù muốn hay không muốn, một phần rất lớn số nợ của doanh nghiệp Nhà
nước sẽ do chính phủ Việt Nam trang trải. Đó là một gánh nặng và số đó
chưa tính vào số 65% GDP.
RFI:Việt Nam hiện
vẫn trong giai đoạn phát triển và cần phải duy trì một mức tăng trưởng
cao, cũng như cần tiếp tục đầu tư vào các cơ sở hạ tầng. Nợ công tăng
cao sẽ ảnh hưởng như thế nào đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam?
TS Lê Đăng Doanh:
Nợ công tăng cao sẽ là một gánh nặng lớn đối với ngân sách Nhà nước
trước mắt và trong tương lai. Cơ cấu chi ngân sách hiện nay là rất không
lành mạnh, tức là trong tổng số chi, thì chi thường xuyên lên đến 71%,
còn chi trả nợ là 24,5%. Cộng hai khoản đó thì ta thấy chỉ còn độ 4,5%
của ngân sách là có thể được chi cho đầu tư. Vì vậy chính phủ sẽ lại
phải mua trái phiếu, lại phải vay nợ để có thể đầu tư được. Và nếu như
đầu tư không hiệu quả và lại được giải ngân chậm thì sẽ rất nguy hiểm.
Hiện
nay thì Việt Nam đang phải giải ngân độ 17 tỷ đôla ODA ( viện trợ phát
triển ) và số tiền vay đó thì phải trả lãi ngân hàng rồi. Nhưng nếu như
giải ngân chậm, công trình không phát huy hiệu quả, thì cả vốn lẫn lãi
đều không phát huy hiệu quả và nó làm tăng gánh nặng nợ công lên. Với nợ
công như vậy thì rõ ràng là khả năng đầu tư rất hạn chế. Cho nên, việc
tái cơ cấu ngân sách, giảm các khoản chi thường xuyên, như nghị quyết Bộ
Chính Trị, là việc rất cấp bách.