Cách Mạng Tháng 8: vì sao đất nước gục ngã? (Nguyễn Gia Kiểng)
“…Đảng
Cộng Sản không theo đuổi lý tưởng dân tộc mà theo đuổi lý tương cộng
sản. Mục tiêu của họ không phải là độc lập và chủ quyền dân tộc mà là
thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản và phong trào cộng sản thế giới…”
Cách Mạng Tháng 8: vì sao đất nước gục ngã? (Nguyễn Gia Kiểng)
Chúng
ta đang ở giữa mùa kỷ niệm Cách Mạng Tháng 8, giai đoạn hai tuần lễ sôi
động từ ngày 19/08 đến ngày 02/09/1945 cách đây 70 năm. Đây là lúc để
nhìn rõ mất mát đau đớn nhất của đất nước vào thời điểm này: sự tàn sát
những người yêu nước chân chính. Đất nước đã ngã gục cùng với họ.
Nội chiến cộng sản
Cách
Mạng Tháng 8 đã là khởi điểm của một cuộc nội chiến kéo dài 30 năm từ
1945 đến 1975 chia ra làm hai giai đoạn, giai đoạn 1945-1954 mà Đảng
Cộng Sản Việt Nam gọi là giai đoạn chống Pháp và giai đoạn 1954-1975 mà
họ gọi là giai đoạn chống Mỹ. Phải nói thẳng: cả hai giai đoạn này đều
chỉ là hai phần của một cuộc nội chiến thảm khốc và không cần thiết, hơn
thế nữa còn là tội ác.
Không
cần thiết trước hết vì không có cuộc nội chiến nào cần thiết cả. Không
có gì tàn phá một quốc gia bằng một cuộc nội chiến bởi vì ngoài những đổ
vỡ về vật chất và sinh mạng nội chiến còn hủy diệt cả tinh thần dân tộc
và tình đồng bào, những nền tảng của một đất nước và rất khó khôi phục
một khi đã đổ vỡ. Chính vì thế mà chưa có quốc gia nào đã có thể hồi
phục nhanh chóng sau một cuộc nội chiến, ngay cả với một cố gắng hòa
giải dân tộc thành thực. Không có lý do nào biện minh cho nội chiến và
không có tội nào lớn hơn tội gây ra nội chiến.
Cuộc
nội chiến 1945-1954 không cần thiết bởi vì vào thời điểm 1945, và ngay
cả trước đó, sự cáo chung bắt buộc của các chế độ thực dân đã là một
điều hiển nhiên đối với mọi người có chút kiến thức chính trị tối thiểu,
sự thể hiện chỉ còn là một vấn đề thời gian. Dĩ nhiên chúng ta vẫn phải
tranh đấu để giành lại chủ quyền trong những điều kiện thuận lợi nhất
nhưng dứt khoát không cần chiến tranh. Vả lại nếu chúng ta có đoàn kết
dân tộc thì chiến tranh đã không xảy ra, người Pháp sẽ không dám ngoan
cố vô ích.
Cuộc
nội chiến 1954-1975 càng vô lý vì Hoa Kỳ không phải là một cường quốc
thực dân và cũng không hề có ý định xâm chiếm một nước nào cả. Vả lại nó
đã được phát động khi sư hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam còn chưa
đáng kể so với sự hiện diện của Liên Xô và Trung Quốc tại miền Bắc.
Nhưng tại sao đã có cuộc nội chiến này?
Đó
là vì Đảng Cộng Sản không theo đuổi lý tưởng dân tộc mà theo đuổi lý
tương cộng sản. Mục tiêu của họ không phải là độc lập và chủ quyền dân
tộc mà là thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản và phong trào cộng sản thế
giới. Đánh Pháp, đánh Mỹ, đánh chủ nghĩa tư bản là nghĩa vụ thiêng liêng
của những người cộng sản chân chính. Lê Duẩn đã từng nói: "Ta đánh là đánh cho Trung Quốc, cho Liên Xô". Độc
lập chỉ là một chiêu bài được sử dụng để đấu tranh cho chủ nghĩa cộng
sản mà vào thời điểm đó các lãnh tụ Đảng Cộng Sản Việt Nam tôn sùng như
một chân lý tuyệt đối. Theo chủ nghĩa này các quốc gia chỉ là sản phẩm
thống trị của giai cấp tư sản. Ở đây phải nói dứt khoát về một điều đã
nhiều lần được nhắc lại: đã có rất nhiều người chiến đấu và hy sinh
trong hàng ngũ cộng sản vì lý tưởng yêu nước. Đúng nhưng họ không có vai
trò lãnh đạo nào cả.
Chính
lý tưởng cộng sản đó đã khiến Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông lấy
một quyết định nghiêm trọng là tàn sát các đảng viên của các đảng phái
quốc gia như Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt và những người không
chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Hàng trăm nghìn người đã bị giết hại trong
và sau Cách Mạng Tháng 8. Nếu độc lập dân tộc là mục tiêu cao nhất thì
không có lý do gì để bách hại họ. Đảng Cộng Sản đã tàn sát họ chỉ để
giành độc quyền lãnh đạo một cuộc nội chiến trá hình dưới danh nghĩa
kháng chiến tai hại cho Việt Nam nhưng cần thiết cho phong trào cộng sản
thế giới.
Não trạng tiền chiến
Phải
nhìn rõ giai đoạn 1930 - 1945, thường được gọi là giai đoạn của thơ văn
và nhạc tiền chiến, để hiểu mất mát to lớn cho đất nước. Hy sinh bi
hùng của Việt Nam Quốc Dân Đảng trong cuộc khởi nghĩa 1930 và biến cố Xô
Việt Nghệ Tĩnh năm 1931 đã không được tiếp nối bằng một ý thức dân tộc
và một phong trào chính trị mà bằng một giai đoạn nở rộ của thơ văn lãng
mạn và nhạc trữ tình kéo dài tới tận Cách Mạng Tháng 8, bất chấp cả Thế
Chiến II. Nghịch lý này còn cần được phân tích thấu đáo hơn nhưng tựu
chung nó có hai lý do.
Lý
do thứ nhất là những người Việt Nam có học thức lúc đó - mà ta tạm gọi
là trí thức - vẫn còn mang nặng văn hóa Khổng Giáo. Họ nhìn chính trị
đơn giản là một con đường công danh và vai trò của kẻ sĩ chỉ là để làm
dụng cụ cho một chính quyền chứ không phải là để đấu tranh cho một đất
nước tươi đẹp hơn. Đại bộ phận những người đi học chỉ mang ước vọng được
làm quan hay được sang giầu.
Lý
do thứ hai là sau một nửa thế kỷ dưới quyền người Pháp một số người
Việt Nam khá đông đảo đã biết đến và say mê văn hóa Pháp. Giai cấp trung
lưu Việt Nam đã đọc và say mê văn thơ Pháp lúc đó cũng là văn thơ phong
phú và tinh hoa nhất thế giới.
Hai
lý do này kết hợp lại đã khiến quan tâm tới chính trị chỉ có nơi một
thiểu số rất nhỏ trí thức Việt Nam. Thiểu số này có tăng lên đáng kể từ
khi Thế Chiến II bùng nổ nhưng vẫn chỉ là một thiểu số nhỏ, không những
ít về số lượng mà còn rời rạc và thiếu kiến thức chính trị. Một thành
phần trí thức khác cũng quan tâm tới chính trị là trí thức cộng sản.
Nhưng những người này đặt chủ nghĩa cộng sản lên trên hết và họ tranh
đấu cho phong trào cộng sản thế giới chứ không phải cho dân tộc Việt
Nam. Đối với họ yêu nước chỉ là yêu chủ nghĩa xã hội. Khẩu hiệu này vẫn
cò được liên tục lặp lại cho đến cuối thập niên 1980.
Như
đã nói ở phần trên những người yêu nước và đặt đất nước Việt Nam lên
trên hết chỉ là một thiểu số, không những thế kiến thức và bản lĩnh
chính trị cũng còn rất sơ sài, chủ yếu vì mới nhập cuộc và không được
hướng dẫn. Ngọn đuốc Phan Châu Trinh đã tắt. Học giả duy nhất đề cập đến
các vấn đề tư tưởng một cách có bài bản là Phạm Quỳnh cũng không quan
tâm lắm tới các chủ đề chính trị. Tuy vậy những người này đã là những
hạt nhân đầu tiên của một thành phần không thể thiếu cho một quốc gia
đúng nghĩa nhưng nước ta vẫn chưa có: những trí thức chính trị. (Xin mở
một ngoặc đơn để nói rằng cụm từ "trí thức chính trị" được dùng ở
đây chỉ để nhấn mạnh tới quan tâm chính trị chứ thực ra không cần
thiết. Trí thức tự nó đã là một khái niệm chính trị. Một trí thức đúng
nghĩa phải có quan tâm chính trị, một chuyên gia dù kiến thức cao rộng
tới đâu nhưng không quan tâm tới những vấn đề đặt ra cho đất nước cũng
chỉ là một người lao động trí óc). Tuy sự hiểu biết về chính trị còn cần
được bổ sung nhưng họ đã có những yếu tố quan trọng nhất của người trí
thức chính trị: nguyện vọng phục vụ đất nước và ý chí đấu tranh bảo vệ
quyền lợi dân tộc, ngay cả nếu phải trả giá. Những yếu tố này mới quan
trọng vì không dễ học hỏi để có như kiến thức. Vả lại các lãnh tụ cộng
sản cao nhất vào lúc đó cũng chỉ có trình độ hiểu biết rất sơ sài nếu
xét qua những gì họ đã viết và nói hoặc những hồi ký của những người
trong cuộc như Trần Đĩnh, Bùi Tín, Đoàn Duy Thành v.v.
Thành
phần trí thức yêu nước này là thành quả của hơn hai thế kỷ tiếp xúc với
phương Tây và gần một nửa thế kỷ cọ xát - nhiều khi tủi nhục - với
người Pháp. Chính họ mới thực sự là ý chí, tinh thần và tình cảm của dân
tộc. Những người học để mưu tìm danh vọng - cũng là đa số vào lúc đó -
có thể hài lòng với mọi chế độ dù độc lập hay ngoại thuộc. Thiểu số cộng
sản thì đã theo đuổi một lý tưởng khác trong đó quốc gia chỉ là dụng cụ
thống trị của một giai cấp cần phải tiêu diệt. Lòng yêu nước của những
người cộng sản ở thời điểm 1945 nếu có cũng không đáng kể.
Trọng
lượng tương đối giữa hai khối trí thức quốc gia và cộng sản lúc đó như
thế nào? Dựa vào tài liệu của Đảng Cộng Sản và hồi ký của những người
trong cuộc thì số đảng viên cộng sản lúc đó chỉ khoảng 2000 người, thành
phần có trình độ học vấn từ lớp 10 trở lên rất ít và sự hiểu biết về
chính trị cũng rất sơ sài. Phe quốc gia đông hơn hẳn, có trình độ văn
hóa cao hơn hẳn và cũng có cơ sở quần chúng do cảm tình giành được sau
sự hy sinh oanh liệt năm 1930 của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Tuy vậy trọng
lượng không phải là sức mạnh, phe quốc gia không có tổ chức nên không có
sức mạnh. Ngược lại Đảng Cộng Sản dù ít người nhưng đã kiểm soát được
cả dư luận lẫn quần chúng và không chế được cả đại đa số trí thức vì có
tổ chức chặt chẽ và vì một lý do khác quan trọng hơn nhiều cần được nhận
diện thật rõ: họ là một tổ chức khủng bố. Một tổ chức khủng bố có thể
làm tất cả những gì nó cần làm hay muốn làm và vì thế nó có sức mạnh ghê
gớm. Bằng chứng là cả thế giới chung sức vẫn chưa dẹp được Al Qaeda.
Đảng
Cộng Sản hoàn toàn làm chủ tình thế và đã tàn sát các thành phần quốc
gia bởi vì nếu không họ chỉ là một thiểu số và sẽ không thể áp đặt cuộc
"kháng chiến chống Pháp" và cướp đoạt chính nghĩa "yêu nước". Khi Hồ Chí
Minh và các lãnh tụ ĐCSVN nói họ đã "cướp chính quyền" trong Cách Mạng
Tháng 8 chúng ta phải hiểu là cướp từ những người quốc gia chứ không
phải từ chính phủ Trần Trọng Kim, một chính phủ hoàn toàn không có thực
chất.
Như
đã nói những trí thức quốc gia là ý chí, tinh thần và tình cảm của dân
tộc. Họ đã bị tàn sát gần hết trong và sau Cách Mạng Tháng 8 và đất nước
đã đột quỵ cùng với họ. Đến nay chúng ta vẫn chưa hồi phục sau mất mát
quá đau đớn này.
Sau Cách Mạng Tháng 8
Sau
này nhưng bộ trưởng trong các chính quyền gọi là "quốc gia" - của Bảo
Đại, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu - hầu hết chỉ là những trí thức
công cụ, những người có thể có nhiều bằng cấp, đôi khi có cả kiến thức
thực sự, nhưng không có tinh thần dân tộc và quyết tâm chính trị. Họ
hoàn toàn không phải là những cấp lãnh đạo chính trị của một nước độc
lập. Không phải là quá đáng nếu nói rằng các chính quyền này chỉ là sự
nối dài của guồng máy thuộc địa cũ.
Còn
trong hàng ngũ cộng sản? Cũng chỉ có những trí thức tê liệt vì sợ hãi
nên đã cúi đầu chịu làm những dụng cụ ngoan ngoãn cho một bộ máy khủng
bố điều khiển bởi những người thiếu cả văn hóa lẫn tâm hồn. Một số đã cố
che đậy sự khiếp nhược của mình bằng cách cũng tỏ ra quyết liệt và tin
tưởng vào chính nghĩa của Đảng Cộng Sản, nhưng sự hèn nhát chỉ hèn nhát
hơn khi nó cố làm ra vẻ hùng tráng.
Dần
dần dưới các chính quyền quốc gia một lớp trí thức chính trị đã hình
thành, nhưng họ chưa đủ mạnh để nắm lấy vai trò chủ động thì chiến thắng
cộng sản 1975 đã ập đến và họ lại bị tiêu diệt. Sự tiêu diệt lần này
không phải là tàn sát thẳng tay như trong Cách Mạng Tháng 8 mà bằng cách
bỏ tù, đầy đọa và hạ nhục. Trí thức miền Nam không bị giết nhưng bị tàn
phá nhân phẩm, ý chí và lòng tự hào. Ngay cả sau này có ra được nước
ngoài họ cũng không thể hoàn toàn hồi phục. Đảng Cộng Sản đã hai lần
tiêu diệt ý chí và tình cảm dân tộc và đã khiến chúng ta suy nhược một
cách trầm trọng trong trí tuệ và tâm hồn. Điều này phải được nhìn rõ.
Sự
suy nhược này chính là lý do khiến chế độ cộng sản vẫn còn tiếp tục sau
hơn 40 năm dù phạm vô số sai lầm và tội ác, đã khiến nước ta tụt hậu và
thua kém bi đát như ngày nay và đã trở thành một chế độ cực kỳ tham
nhũng.
Kỷ
niệm Cách Mạng Tháng 8 là dịp để chúng ta, những con người Việt Nam hôm
nay, suy nghĩ về một cợ hội đáng lẽ phải mở ra kỷ nguyên vinh quang
nhưng lại chỉ mở đầu cho một thảm kịch đã kéo dài 70 năm và vẫn chưa
chấm dứt.
Quan
trọng hơn, để nghiêng mình kính cẩn trước những tinh hoa của đất nước
đã bị sát hại. Cách tôn vinh đúng nhất đối với họ là thực hiện điều mà
họ đã mơ ước và đã trả giá bằng tính mạng: một nước Việt Nam dân chủ và
đáng tự hào.
Và muốn như thế thì đừng lặp lại sai lầm của họ vào thời điểm 1945. Đừng phân tán lực lượng.
Nguyễn Gia Kiểng
(26/8/2015)
(26/8/2015)
Mời đọc thêm nhân mùa kỷ niệm CMT8:
Trong dịp này tôi xin đăng lại hầu quý thân hữu ba bài đã viết trước đây trong cùng một mạch suy nghĩ:
1. Nhìn lại Cách Mạng Tháng 8, viết năm 1991 với mục tiêu đóng góp cho một cái nhìn đầy đủ hơn về khúc quanh lịch sử trọng đại này.
2. Nhìn lại hai cuộc Cách Mạng Pháp 1789 và Việt Nam 1945, viết
năm 2006 để nói lên sự thiếu vắng bi đát của một điều mà chúng ta vẫn
chưa ý thức được một cách đầy đủ sự cần thiết cho một quốc gia: một tư
tưởng chính trị. Trong những giai đoạn chuyển hóa lớn dân tộc nào cũng
cần được những nhà tư tưởng hướng dẫn, để biết mình nên nghĩ gì, đi
hướng nào và làm gì. Tuy vây cả hai cuộc cách mạng này đều đã chỉ do
những người hành động lãnh đạo và cả hai dân đã phải trả giá rất đắt.
3. Vết thương ngày 30 tháng 4, viết
năm 1999 để nói lên thiệt hại lớn nhất mà Đảng Cộng Sản đã gây ra cho
đất nước sau ngày 30-4-1975: hủy hoại một lớp trí thức chính trị mới vừa
mới hình thành.