Ý chí và Tình cảm còn lại của dân tộc (Nguyễn Gia Kiểng) (TL 263)
"...Dù
nhận định thế nào về nhau chúng ta cũng đều phải chia sẻ một khắc khoải
chung là làm thế nào để gia tăng số người như chúng ta, làm thế nào để
giữ cho ngọn lửa tình cảm đối với đất nước còn tiếp tục cháy. Chúng ta
là ý chí và tình cảm còn lại của dân tộc..."
Ý chí và Tình cảm còn lại của dân tộc (Nguyễn Gia Kiểng) (TL 263)
Chủ
đề của cuộc họp mặt giữa các chí hữu và thân hữu Tập Hợp Dân Chủ Đa
Nguyên ngày 30/10 vừa qua tại Bruxelles là để trao đổi về Việt Nam trước
làn sóng dân chủ mới. Tuy nhiên, vì hầu như tất cả những người tham dự
đều đã theo dõi cuộc Cách Mạng Ả Rập và cũng đã biết những ý kiến của
tôi về những biến động đang diễn ra trên thế giới nên trọng tâm của cuộc
họp mặt nhanh chóng chuyển qua hiện tình Việt Nam.
Nhịp cầu của sự chuyển dịch này là câu hỏi mà anh Bảo nêu ra: Liệu cuộc
Cách Mạng Ả Rập sau cùng có đưa đến kết quả là thiết lập các chính quyền
Hồi Giáo toàn nguyên không? Câu hỏi quan trọng bởi vì nó đang khiến
nhiều người lo lắng, và nếu quả như thế thì cuộc Cách Mạng Ả Rập không
còn là một cuộc cách mạng dân chủ nữa, nó sẽ dừng lại ở đấy và cũng sẽ
chẳng có tác dụng đáng mong muốn nào cho Việt Nam. Tuần trước tôi cũng
vừa có mặt tại một trong những nước này với cùng một câu hỏi trong đầu.
Cuộc tham quan đã khiến tôi rất yên tâm. Tôi đã gặp nhiều người Ả Rập,
những trí thức cũng như những người dân quê nghèo khổ tin kinh Coran một
cách mãnh liệt, và cả một số imam (giáo sĩ). Họ xác nhận hoàn toàn niềm
tin của tôi là không có nguy cơ những chế độ Hồi Giáo quá khích. Những
người sắp được bầu lên có lý do gì để thành lập những chính quyền Hồi
Giáo cực đoan? Vì đại bộ phận quần chúng còn giáo điều một cách cuồng
tín? Không gì sai hơn. Quần chúng Hồi Giáo đã thay đổi từ rất lâu rồi.
Tại Indonesia, Bangladesh, Pakistan, Turkey, Sri Lanka và nhiều nước Hồi
Giáo khác những người đàn bà đã được bầu lên làm tổng thống hoặc thủ
tướng, trái ngược hẳn với vai trò của người phụ nữ được qui định trong
kinh Coran. Ảnh hưởng của Hồi Giáo trong cuộc sống hàng ngày đã sút giảm
rất nhiều từ hơn một thế kỷ nay và càng sút giảm nhanh chóng trong
những năm gần đây ngay tại những nước Ả Rập, như người ta có thể thấy
ngoài đường phố. Những phụ nữ trùm khăn chỉ còn là một thiểu số rất nhỏ
trong giới trẻ, các mosquée vắng vẻ, không còn ai dừng lại cầu kinh
ngoài đường, kể cả vị imam đi với tôi. Các bạo chúa Ả Rập trong nhiều
năm đã bắt chẹt các nước dân chủ phương Tây trong chọn lựa giữa họ và
những chính quyền Hồi Giáo cực đoan. Sự bịp bợm này ngày nay đã bị lật
tẩy. Các chính quyền Ả Rập mới sẽ là những chính quyền có màu sắc Hồi
Giáo, nhưng sẽ không phải là những chính quyền Hồi Giáo quá khích mà là
những chính quyền dân chủ, và chất Hồi Giáo sẽ phai lạt với thời gian.
Các dân tộc Ả Rập đã vùng lên đòi tự do và dân chủ chứ không phải để đòi
thiết lập những chế độ thần quyền.
Anh Hưng đặt lại câu hỏi day dứt: "Gần đến ngày 9-11 rồi. Chúng ta sắp
kỷ niệm 22 năm ngày bức tường Berlin sụp đổ. Tại sao chế độ Cộng sản
Việt Nam vẫn còn trụ được?”. Không khí thân mật của buổi họp mặt này cho
phép trao đổi một cách thẳng thắn trong tình anh em. Một chính quyền
không thể bị đào thải nếu trước mặt nó không có một lực lượng nào cả.
Ngay cả nếu nó có ngã gục thì cũng vẫn cần một lực lượng để kéo thi thể
của nó đi chỗ khác. Nhưng lực lượng này chúng ta không có. Trong phần
thuyết trình, khi phân tích làn sóng dân chủ thứ tư, tôi đã nhấn mạnh
rằng thực tế cho thấy trong mọi cuộc chuyển hóa về dân chủ các tác động
bên trong bao giờ cũng quan trọng gấp nhiều lần các tác động từ bên
ngoài. Chúng ta đã không có lực lượng dân chủ để tác động từ bên trong,
sự tồn tại của chính quyền cộng sản là điều hiển nhiên. Các tác động bên
ngoài cũng đã tan biến nhanh chóng không lâu sau khi bức tường Berlin
sụp đổ. Năm 1992 Bill Clinton đắc cử tổng thống Mỹ với khẩu hiệu
“Economy, stupid!” (Chỉ làm kinh tế) và làn sóng dân chủ thứ ba đã bắt
đầu khựng lại. Trong gần hai mươi năm qua, chủ yếu do ảnh hưởng của Hoa
Kỳ, các nước dân chủ đã đi theo chủ nghĩa thực tiễn, chỉ làm kinh tế,
đặt quyền lợi lên trên hết và trước hết, bình thường hóa các chế độ độc
tài bạo ngược. Đỗ Mười – Lê Đức Anh đã chọn giảng hòa với Trung Quốc để
dựa vào Trung Quốc mà tồn tại. Đối với họ sự duy trì chính quyền luôn
luôn là ưu tư duy nhất, và trong chọn lựa tồi tệ này họ cũng đã được một
bối cảnh quốc tế thuận lợi nhờ chủ nghĩa thực tiễn mà Hoa Kỳ và Châu Âu
theo đuổi. Nhưng chế độ cộng sản vẫn còn chủ yếu bởi vì không có gì để
thay thế nó. Hãy thử tưởng tượng một giả thuyết hoàn toàn hoang đường là
chính quyền cộng sản tự nhiên biến mất cùng với bức tường Berlin. Trong
trường hợp đó nó sẽ chỉ nhường chỗ cho một khoảng trống chính trị, và
rối loạn, thậm chí bạo loạn.
Anh Trực phân vân không biết chúng ta có thể làm được gì trong sự xuống
cấp bi đát của đạo đức và lòng yêu nước hiện nay. Anh là một trí thức
sinh ra và lớn lên dưới chế độ cộng sản và mới về thăm Việt Nam cách đây
chưa lâu. Anh rất lo âu. Tham nhũng có phe đảng và đã thành qui luật.
Người Việt Nam, kể cả tuổi trẻ, thanh niên sinh viên, không phẫn nộ
trước những bất công xã hội mà chỉ tìm cách khai thác tối đa tình trạng
đó. Họ không thương mà còn đạp lên những người cùng khổ để tiến lên.
Thanh niên lao mình vào lối sống vội vàng sa đọa, không hiểu biết gì về
chính trị và hiện tình bi đát của đất nước nhưng cũng không cần biết;
nhiều khi họ còn nạt nộ một cách xấc xược người đặt vấn đề đất nước ra
với họ, không phải vì sợ mà vì không muốn quan tâm. Nhưng những sự kiện
này có quả thực đáng để ta ngạc nhiên không? "Hạ đạp" là tiếp nối tự
nhiên của "thượng đội", sự hống hách xấc xược với những người không có
quyền lực là sản phẩm của sự chịu đựng bất lực những kẻ có quyền lực. Sự
suy sụp của những giá trị cộng đồng và đạo đức là phản xạ đáng buồn
nhưng tự nhiên của một chế độ toàn trị vô đạo. Cũng thế, tham nhũng là
phản xạ tự vệ của chính thành phần được ưu đãi đối với một chế độ toàn
trị mà chính họ là những con cưng. Khi mọi quyền lực đã tập trung vào
một vài người đứng đầu nhà nước thì phương thức giản dị nhất để giành
lấy một chút quyền lực là cố gắng bằng mọi phương tiện để có thực nhiều
tiền vì dù sao tiền tự nó cũng là một nguồn quyền lực. Chế độ cộng sản
Việt Nam liên tục kêu gọi chống tham nhũng, lời kêu gọi này có thể thành
thực nhưng họ sẽ không chống được tham nhũng bởi vì tham nhũng là sản
phẩm tự nhiên và bắt buộc của một chế độ toàn trị.
Theo anh Luyến thì sau cùng tương lai đất nước vẫn là tuổi trẻ, nhưng sự
thực phũ phàng phải nhìn nhận là tuổi trẻ Việt Nam thấp bé quá, vậy thì
Việt Nam sẽ có tương lai nào? Thanh niên Việt Nam, kể cả những người
tốt nghiệp đại học và cao đẳng, hầu như không có một dự án nào cho đất
nước. Đó là một điều đáng buồn nhưng điều còn đáng buồn hơn là họ cũng
chỉ có những dự án tương lai rất nhỏ bé cho chính mình, như được làm tay
chân cho một người có quyền và có tiền, được một công việc làm với
lương vài trăm đô la mỗi tháng, đủ cho phép đi nhậu bia lâu lâu một lần,
được có một chiếc xe máy v.v. Nhưng thành thực mà nói thanh niên Việt
Nam có quyền mơ ước những gì? Khó có thể là những thành tựu khoa học kỹ
thuật bởi vì họ không có những phương tiện và những giáo sư tương đương
với sinh viên Hàn Quốc cũng không thể là những công trình văn hóa tư
tưởng vì họ không có quyền tự do suy nghĩ và phát biểu trong khi ý kiến
và sáng tạo là những yếu tố chỉ nẩy sinh và phát triển nơi những con
người tự do, trong những xã hội dân chủ. Ngay cả giấc mơ bình thường và
nhỏ bé là có được một căn nhà nhỏ ở thành phố cũng hoàn toàn ngoài tầm
tay tuyệt đại đa số. Thử thách có thể khiến con người lớn lên nhưng
trong đa số trường hợp nó cũng có thể bẻ gẫy, và làm cho con người nhỏ
lại và thấp xuống. Cuộc chiến đấu của chúng ta cũng chính là để trả lại
cho tuổi trẻ quyền được mơ ước.
Giải pháp nào cho sự băng hoại của đạo đức, ý chí và niềm tin? Giải pháp
này không thể do thảo luận mà có. Các ý niệm đạo đức - thiện và ác, xấu
và tốt, sự thực thà lương thiện, tình bạn, tình yêu, lòng yêu nước, ý
chí cải tiến xã hội và giúp đồng loại v.v.- không thể thảo luận, vì khi
thảo luận chúng ta bắt buộc phải sử dụng ngôn ngữ phân tích và mô tả
bình thường, nghĩa là ngôn ngữ không thuộc phạm trù đạo đức, và do đó bỏ
mất nội dung đạo đức của chúng. Đó là những giá trị mà người ta có hoặc
không có và chỉ có thể chuyên chở và chuyển giao chứ không thể chứng
minh. Nhưng còn bao nhiêu người chuyên chở và truyền bá những giá trị
đó? Tôi thường có một cảm giác gần gũi thân quen trong những buổi hội
thảo chính trị gần đây, ngay cả với những người mà mình chưa gặp bao giờ
và cũng không biết họ nghĩ gì về anh em THDCĐN chúng tôi. Đó là vì
chúng ta, dù thuộc thành phần nào và có lập trường nào cũng đều thuộc
một chủng loại ít ỏi đang đứng trước đe dọa diệt chủng, chủng loại những
người yêu nước hoặc còn quan tâm tới đất nước. Sự thực đáng buồn là sự
thất vọng kéo dài quá lâu với một chính quyền tồi dở và thô bạo đã dần
dần biến thành sự thất vọng đối với chính đất nước và đại đa số đã chọn
lựa bỏ cuộc về mặt chính trị, để mỗi người lo giải quyết những vấn đề cá
nhân bằng những giải pháp cá nhân. Dù nhận định thế nào về nhau chúng
ta cũng vẫn là đồng loại và đều phải chia sẻ một khắc khoải chung là làm
thế nào để gia tăng số người như chúng ta, làm thế nào để giữ cho ngọn
lửa tình cảm đối với đất nước còn tiếp tục cháy. Chúng ta là ý chí và
tình cảm còn lại của dân tộc. Trong cuộc phấn đấu này chúng ta đều là
chí hữu và anh em. Điều trước hết chúng ta phải làm là xây dựng đội ngũ
dân chủ để tạo niềm tin và để cống hiến cho những giá trị đạo đức một sự
hiện hữu cụ thể bằng xương bằng thịt làm điểm hẹn cho những con người
còn ý chí hoặc còn có thể đánh thức và động viên. Lý do căn bản của tâm
lý lãnh cảm và bỏ cuộc là cảm giác bất lực trước một tình trạng đất nước
rất đáng phẫn nộ nhưng mình không thể làm gì để thay đổi. Một đảng cầm
quyền lãnh đạo bởi những người thiếu cả tầm vóc, đạo đức lẫn sự hiểu
biết, đã thất bại trên mọi phương diện và trong mọi địa hạt nhưng vẫn
xấc xược tự cho mình quyền thống trị đất nước một cách không phân chia
trong một thời gian vô hạn định; vậy mà trước mặt nó gần 40 năm đã trôi
qua vẫn chưa có một tổ chức dân chủ nào có tầm vóc. Phải xây dựng cho
bằng được một tổ chức như thế để phục hồi lại niềm tin và những giá trị
tình cảm và đạo đức, những giá trị chỉ có thể phục hồi bằng sự hiện hữu
của một lực lượng những người chuyên chở chúng chứ không thể bằng thảo
luận và lý luận.
Nhưng tại sao tuổi trẻ và quần chúng lại thụ động trong tâm lý rã hàng
và bỏ cuộc? Đó là vì chúng ta thiếu một tầng lớp trí thức chính trị để
soi sáng, động viên và lãnh đạo họ. Xã hội văn minh và tiến bộ nào cũng
phải do trí thức lãnh đạo, cuộc cách mạng đúng nghĩa nào cũng phải do
trí thức chủ xướng. Thảm kịch của chúng ta là sự thiếu vắng một tầng lớp
trí thức chính trị, tầng lớp của những người có kiến thức chính trị,
hiểu biết kỹ thuật đấu tranh chính trị và quyết tâm tranh đấu để đất
nước được quản lý một cách đúng đắn. Di sản Khổng Giáo đã chỉ để lại cho
chúng ta những trí thức khoa bảng đinh ninh rằng một khi đã có bất cứ
một bằng cấp đại học nào là mình đương nhiên có thể làm chính trị, những
trí thức coi làm chính trị là làm quan và sẵn sàng làm công cụ cho bất
cứ một chính quyền nào. Một bằng cớ rằng chúng ta không có tầng lớp trí
thức chính trị là chúng ta hầu như không có tư tưởng chính trị và tuyệt
đại bộ phận trí thức Việt Nam, kể cả những được coi là dấn thân chính
trị, vẫn chưa hiểu rằng một tổ chức dân chủ mạnh là điều kiện không có
không được. Xây dựng một tổ chức dân chủ mạnh cũng là xây dựng một đội
ngũ trí thức chính trị, điều kiện bắt buộc để đưa đất nước vào kỷ nguyên
dân chủ nhưng chúng ta vẫn chưa có.
Kết hợp những người dân chủ trên tinh thần nào? Anh Long cho rằng cho
rằng dân chủ đa nguyên là lý tưởng đúng, hòa giải và hoà hợp dân tộc
cũng là một tinh thần rất đúng, nhưng hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng
là một chính sách mà chỉ có người cầm quyền mới thực hiện được và chính
quyền cộng sản đã chứng tỏ là họ không muốn hòa giải.
Phải chăng chúng ta bế tắc? Mọi cuộc đấu tranh xứng đáng đều nhắm thực
hiện những chính sách đúng nhưng chưa được thực hiện và tôn vinh những
giá trị đúng nhưng chưa được tôn vinh. Sức mạnh của một cuộc đấu tranh
cách mạng là một lý tưởng đẹp và đúng. Hòa giải và hòa hợp dân tộc là
một giá trị và một sức mạnh. Trước khi trở thành một chính sách, khi
cuộc cách mạng dân chủ đã thành công.
Nguyễn Gia Kiểng