Nhìn lại giai đoạn Ngô Đình Diệm (Nguyễn Gia Kiểng)
“…Một
sự thực đáng buồn là cho tới này phần lớn những bài viết về chế độ Ngô
Đình Diệm và anh em họ Ngô đều chỉ dựa vào một số sự kiện để phát biểu
lập trường có sẵn của mình… Thái độ phải có là cố gắng hiểu rõ một giai
đoạn lịch sử để có thể rút ra những kết luận đúng cho tương lai…”
Nhìn lại giai đoạn Ngô Đình Diệm (Nguyễn Gia Kiểng)
Nhân
dịp kỷ niệm lần thứ 52 ngày chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ và hai ông
Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị thảm sát – sau đó ít lâu ông Ngô Đình
Cẩn cũng bị xử tử - tôi đã đề nghị ban biên tập Thông Luận cho đăng lại hai bài tôi viết trước đây. Đó là bài "Kinh nghiêm Ngô Đình Diệm" viết năm 2004 và bài "Ông Ngô Đình Diệm đã lên cần quyền như thế nào?"
viết năm 2005. Tôi giữ nguyên những ý kiến trong cả hai bài này dù
trong khoảng thời gian giữa hai bài đã xảy ra một sự kiện quan trọng: đó
là tôi có được hai tài liệu cho thấy rõ một cách không thể chối cãi
tiến trình đã đưa ông Diệm lên cầm quyền và cũng giải thích tại sao
chính quyền Ngô Đình Điệm đã hành động như họ đã làm.
Lần này tôi công bố toàn bộ hai tài liệu này mà mười năm trước khi viết bài "Ông Ngô Đình Diệm đã lên cầm quyền như thế nào?"
tôi đã không có thì giờ để đánh máy và dịch sang tiếng Việt. Đó là một
thư của ông Ngô Đình Nhu viết cho ông Jacques Bénet ngày 20 tháng 4 năm
1955 và một thư của ông Jacques Bénet viết cho bà Ngô Đình Nhu ngày 18
tháng 10 năm 2004. Tôi xin nhắc lại một điều đã viết trong bài này là
ngay từ trước, khi được ông Ngô Đình Luyện (có sinh hoạt một thời gian
trong nhóm Thông Luận, tiền thân của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên,
trước khi qua đời) giải thích rằng ông Diệm lên cầm quyền là do ý muốn
của Bảo Đại tôi đã thấy giải thích này không hợp lý.
Thư
của ông Jacques Bénet gửi bà Nhu trình bày một cách chi tiết tiến trình
trong đó người Pháp đưa ông Diệm lên cầm quyền và làm áp lực để buộc
Bảo Đại phải chấp nhận giải pháp này.
Thư
của ông Nhu gửi ông Jacques Bénet cho thấy rõ là chính quyền Pháp đã có
cả một kế hoạch ngầm để giúp ông Ngô Đình Diệm loại tướng Nguyễn Văn
Hinh, dẹp quân Bình Xuyên và các giáo phái để thu tóm quyền lực về một
mối. Thư này cũng nói đến "trận chung kết" là tổ chức bầu cử. Đó là cuộc
trưng cầu dân ý ngày 23 tháng 10 năm 1955 lật đổ Bảo Đại. Sau đó chế độ
Việt Nam Cộng Hòa được chính thức công bố ngày 26/10/1955. Ông Nhu cũng
nhấn mạnh về sự cần thiết của một chính sách của Pháp tại Đông Dương.
Hai
lá thư này cho phép kết luận rằng ông Ngô Đình Diệm không phải do Mỹ
đưa lên cũng không phải do ông Bảo Đại chọn lựa mà là một giải pháp của
chính quyền Pháp để triệt thoái một cách êm thấm khỏi Việt Nam đồng thời
giữ được tối đa ảnh hưởng chính trị và văn hóa cũng như các quyền lợi
kinh tế. Như vậy phải hiểu rằng chính sách hợp tác với Mỹ và chống Pháp
trong những năm đâu của chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ là bề ngoài. Bên
trong thực sự là đi đêm với Pháp và lợi dụng Mỹ.
Cũng
theo chủ trương của Pháp mà chính quyền Ngô Đình Diệm đã ngấm ngầm tiếp
xúc với phe cộng sản để tìm cách thỏa hiệp. Theo hồi ký của ông Nguyễn
Phú Đức, cựu bộ truởng VNCH, việc này bị Mỹ phát giác vì đại tá Hoàng
Thụy Năm đã thông báo cho tình báo Mỹ cuộc tiếp xúc giữa ông Ngô Đình
Nhu và ông Phạm Hùng trên sông Sài Gòn. Ông Nhu đã ra lệnh giết ông
Hoàng Thụy Năm và đổ tội cho cộng sản ám sát. Ông Nguyễn Phú Đức đã liên
tục giữ những chức vụ rất quan trọng trong chế độ VNCH nên những điều
ông tiết lộ có mọi khả năng là đúng. Hơn nữa tiết lộ của ông Nguyễn Phú
Đức cũng rất phù hợp với một chuỗi sự kiện:
-
Đầu tháng 3/1961 ông Ngô Đình Nhu thay mặt chính quyền VNCH đi Maroc dự
lệ tấn phong vua Hassan II. Tại sao ông Nhu, một người không có chức vụ
chính thức nào lại thay mặt cho chính quyền VNCH trong một nghi lễ
chính thức và long trọng như vậy mà không phải là tổng thống Ngô Đình
Diệm, hay phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ hay ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu?
-
Sau đó, như một sự tình cờ, ông Ngô Đình Nhu được tiếp đón rất long
trọng tại Pháp và ở lại Pháp vài ngày dù lúc đó bề ngoài Việt Nam đang
rất lạnh nhạt với Pháp. Việc đi Maroc dự lễ đăng quang vua Hassan II có
thể chỉ là một lý cớ để ông Nhu hội ý với chính quyền Pháp.
-
Sau đó vài tháng là cuộc tiếp xúc Ngô Đình Nhu - Phạm Hùng. Người ta có
thể hiểu rằng cuộc tiếp xúc này đã do Pháp dàn xếp sau khi thuyết phục
ông Nhu. Nhiều tài liệu còn cho hay là ông Nhu còn gặp lại Phạm Hùng đầu
năm 1963.
-
Ngày 01 tháng 10 năm 1961 đại tá Hoàng Thụy Năm bị bắt cóc và bị giết.
Sau này người ta được biết ông Hoàng Thụy Năm không bị cộng sản ám sát
mà do ông Nhu ra lệnh giết.
Việc
tìm kiếm một thỏa hiệp với Hà Nội có đúng hay không là một vấn đề có
thể bàn cãi. Điều chắc chắn là nó rất trái ngược lập trường "diệt cộng"
chính thức của chính quyền Ngô Đình Diệm; nó đã khiến Hoa Kỳ cảm thấy bị
phản bội và quyết tâm lật đổ chế độ, nhất là sau khi hai ông Diệm và
Nhu giết ông Hoàng Thụy Năm. Việc chính quyền Ngô Đình Diệm thiên vị
Công giáo là có thật nhưng việc đàn áp Phật Giáo chỉ là lý cớ dàn dựng
của người Mỹ để lật đổ ông Diệm. Việc Dương Văn Minh giết hai ông Diệm
và Nhu sau khi họ đã đầu hàng rất có thể là theo chỉ thị của Mỹ. Khó có
thể tưởng tượng Mỹ chấp nhận để hai ông sang Pháp và chống đối lại chính
sách của họ tại Việt Nam.
Đây cũng là dịp để nhìn lại những nét chính của chế độ Ngô Đình Diệm.
1.
Nhận xét đầu tiên là người có quyền lực lớn nhất trong chế độ là ông
Ngô Đình Nhu chứ không phải ông Ngô Đình Diệm. Chính ông Nhu đã vận động
chính quyền Pháp để đưa ông Diệm lên cầm quyền và sử dụng ông Diệm như
một biểu tượng.
2.
Ông Nhu, và ông Jacques Bénet, đã rất chủ quan và sai lầm khi nghĩ rằng
ông Ngô Đình Diệm là một biểu tượng tốt. Quan điểm của tôi, như đã
trình bày trong bài "Kinh nghiệm Ngô Đình Diệm", là ông Ngô
Đình Diệm không thể là một biểu tượng cho Việt Nam trong thời đại độc
lập. Ông đã hợp tác tận tình với chế độ Pháp thuộc và đã tiếp tay đàn áp
những người đấu tranh giành chủ quyền dân tộc. Ông, và cả ông Nhu, cũng
không phải là người hùng biện và có viễn kiến để thu hút trí thức và
quần chúng.
3.
Cách làm chính trị của ông Diệm và ông Nhu là cách làm chính trị nhân
sĩ. Họ không xây dựng lực lượng đấu tranh mà chỉ vận động hành lang để
được một thế lực ngoại bang đưa lên cầm quyền. Cách hoạt động chính trị
này phải bị vất bỏ dứt khoát và vĩnh viễn. Kinh nghiệm Ngô Đình Diệm cho
thấy rằng cách làm chính trị này dù có "thành công" trong nhất thời
cũng chỉ là một tai họa cho đất nước và sau cùng cho chính mình. Chính
vì không có tổ chức mà khi cầm quyền hai ông Diệm và Nhu đã phải dựa vào
gia đình và một số người thân thuộc.
4.
Ông Nhu đã quá chủ quan khi nghĩ rằng có thể đánh lửa được dư luận Việt
Nam và chính phủ Mỹ khi bề ngoài tỏ ra chống Pháp trong khi vẫn liên hệ
mật thiết ngấm ngầm với Pháp. Sự chủ quan còn đi đôi với sự vụng về vì
chính quyền Ngô Đình Diệm là một sự tiếp nối quá lộ liễu của chính
quyền bảo hộ Pháp. Tất cả các quyền lợi của Pháp đều được duy trì, con
cái các cấp lãnh đạo cao cấp đều chỉ học trường Pháp, mọi viên chức thời
Pháp thuộc đều được trọng dụng và thăng tiến, các đảng phái chống Pháp
bị đàn áp, dù được nhân dân tôn kính, như Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại
Việt.
5.
Thống nhất quyền lực vào giai đoạn 1954 - 1955 là một chủ trương đúng
nhưng tiêu diệt các lực lượng giáo phái như hai ông Diệm – Nhu đã làm là
không đúng. Họ là những lực lượng có cơ sở quần chúng và cũng có bản
chất dân tộc hơn những công chức, sĩ quan và hạ sĩ quan của bộ máy thuộc
địa mà chính quyền Ngô Đình Điệm trân trọng và lưu dụng. Vấn đề là phải
thuyết phục và giáo dục được họ, nhưng điều này vượt khả năng của các
ông Diêm và Nhu, những người thuộc môi trường quan lại sống tách biệt
với xã hội Việt Nam.
6.
Trái với quan điểm của một số người, ông Ngô Đình Nhu không có bản lĩnh
chính trị cao. Chắc chắn ông có kiến thức chính trị cao hơn phần lớn
những người lãnh đạo phe quốc gia cùng thời đại với ông, nhưng ông chưa
có khả năng chính trị phải có ở tầm mức quốc gia. Chủ nghĩa nhân vị mà
ông đề cao - và cũng không có dấu hiệu gì là đã hiểu - trên thực tế chỉ
là một chủ nghĩa cá nhân lúng túng không dám tự xác nhận. Tôi đã có may
mắn quen biết hai cộng sự viên gần gũi nhất của hai ông Diệm và Nhu tại
Dinh Độc Lập trong suốt thời gia họ cầm quyền là đại tá Lê Văn Đức và
giáo sư Tôn Thất Thiện. Cả hai đều xác nhận các tác phẩm của ông Nhu chỉ
là những bài diễn văn của ông Diệm. Nhưng bài diễn văn này không có gì
đặc sắc.
7.
Sai lầm và trách nhiệm lớn nhất của chế độ Ngô Đình Diệm là đã đàn áp
các đảng quốc phái quốc gia. Các đảng này đã đóng góp xương máu giành
độc lập dân tộc và chống lại cộng sản. Họ có sự chính đáng hơn hẳn ông
Ngô Đình Diệm. Chỉ có hợp tác với họ mới có thể tranh thủ được sự ủng hộ
của quần chúng.
8.
Nhiều người ca tụng hai ông Diệm và Nhu là có tác phong xứng đáng, có
danh dự cao và đã dũng cảm bảo vệ bằng tính mạng lập trường của mình.
Đúng là ông Diệm và ông Nhu đã có phong cách hơn hẳn nhưng người đã từng
giữ vai trò lãnh đạo trong gần một thế kỷ qua trong cả hai phe quốc gia
cũng như cộng sản. Tuy vậy cũng không thể quên là cuối cùng, khi thấy
mình tuyệt vọng, họ đã đầu hàng nhóm tướng lãnh đảo chính để rồi bị
giết. Mặt khác theo lời của ông Kenneth Todd Young, một viên chức cao
cấp tại bộ ngoại giao Mỹ phụ trách về Châu Á, thì ông Trần Văn Chương,
thân phụ bà Ngô Đình Nhu, đã cho hay là một tuần trước khi bị đảo chính
hai ông Diệm và Nhu cũng đã có ý định đào thoát ra nước ngoài nhưng ý
định này không được thực hiện vì sự chống đối dữ dội của bà Ngô Đình
Nhu. Ông Diệm và ông Nhu không tuẫn quốc như nhiều người nghĩ. Họ đã
lãnh đạo đất nước, đã không thành công và bị giết, sau khi chính họ cũng
đã thủ tiêu nhiều người khác.
9. Sau cùng nhân dịp này tôi thấy cần khẳng định dứt khoát một lần nữa là ông Ngô Đinh Nhu không liên quan gì tới cuốn Chính Đề Việt Nam.
Tác giả cuốn sách này là ông Lê Văn Đồng một cựu công sự viên của hai
ông Diệm và Nhu nhưng đã chia tay ngay từ năm 1957 vì bất đồng quan
điểm. Khi tham gia Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên năm 1988 (lúc đó chưa có
danh xưng chính thức THDCĐN) ông Lê Văn Đồng đã đem đến và trình bày
cuốn Chính Đề Việt Nam. Chính chúng tôi đã làm photocopy và phổ
biến tới một số thân hữu. Lúc đó ông Ngô Đình Luyện cũng sinh hoạt với
chúng tôi và cũng có tham gia cuộc thảo luận về cuốn Chính Đề Việt Nam
với ông Lê Văn Đồng, và không ai đặt nghi vấn về việc Tùng Phong là bút
hiệu của Lê Văn Đồng cả. Giả thuyết ông Ngô Đình Nhu là tác giả cuốn
sách này chỉ dựa trên dựa trên một sự kiện rất mỏng manh là ông Cao Xuân
Vỹ nhớ lại rằng có lần ông Ngô Đình Nhu đã nhờ ông trao cho ông Lê Văn
Đồng một tập tài liệu bằng tiếng Pháp mà ông không nhớ là gì. Từ đó mà
suy luận rằng đó là bản tiếng Pháp của Chính Đề Việt Nam thì quả là quá phiêu lưu.
Một
sự thực đáng buồn là cho tới này phần lớn những bài viết về chế độ Ngô
Đình Diệm và anh em họ Ngô đều chỉ dựa vào một số sự kiện để phát biểu
lập trường có sẵn của mình. Người bênh anh em họ Ngô thì viện dẫn mọi lý
do - kể cả những lý do rất vu vơ như trong câu chuyện cuốn Chính Đề Việt Nam -
để ca tụng, người ghét thì cũng tìm mọi lý cớ để đả kích, trong khi
thái độ phải có là cố gắng hiểu rõ một giai đoạn lịch sử để có thể rút
ra những kết luận đúng cho tương lai.
Giai
đoạn Ngô Đình Diệm mới chỉ gần đây thôi. Còn khá nhiều tài liệu và nhân
chứng. Nếu chúng ta không có nổi một sự hiểu biết chính xác thì những
sử liệu về các giai đoạn trước có giá trị gì?
Nguyễn Gia Kiểng
(01/11/2015)
(01/11/2015)
Phụ đính 1:
Thư của ông Ngô Đình Nhu gửi ông Jacques Bénet
Le 20 Avril
Mon cher Bénet,
Merci infiniment de ta longue lettre du 8. C'est positivement étonnant cette unité de vue entre toi et moi sur tous les aspects
du problème qui nous intéresse que cela touche les réalités politiques
ou les hommes qui y participent, y compris mes frères, M. Khiêm ou tes
compatriotes. C'est à croire que nous ne nous sommes pas quittés depuis
1949 et que nous travaillons côte à côte dans le même bureau sous la
vigilance de ta Simone. C'est te dire combien je suis heureux de voir
pareilles communion d'idées et de sentiments entre toi et moi, séparés
par des milliers de kilomètres. C'est vrai qu'après avoir surmonté la
crise Hinh nous nous apprêtions à démarrer avec l'affaires des sectes
qui se présentait on ne peut plus favorablement. Malheureusement nous
nous sommes coincés entre l'incompréhension française et l'inexpérience
américaine: une différence d'appréciation sur l'opportunité de briser de
façon ferme et décisive l'obstacle féodal pour libérer le pauvre peuple
vietnamien et le rallier à nous. Depuis l'avènement du Président la
grande pensée du gouvernement est de briser les deux obstacles, cercles
de fer, qui séparaient le peuple du gouvernement progressite. C'est
l'armée "nationale" et "les sectes". Nous avons gagné la première
manche, nous espérons gagner la seconde, la belle sera alors les
élections que nous sommes certains de gagner. Ajouté à cela ce "Temps
harcelant" qui ne nous permet pas de musarder en chemin et de pratiquer
la bonne vieille politique de compromis. L'heure est donc unique et
décisive. Si nous ne réussissons pas à convaincre les responsables du
Monde Libre pour qu'ils nous aident à neutraliser les colonialistes qui
soutiennent les féodaux contre le gouvernement national nous irons à la
catastrophe. Car le peuple vietnamien déçu définitivement nous
abandonnera. Et le Monde Asiatique que nous avons travaillé ces derniers
mois et qui commençait à s'impatienter avec nous, se détournera de
nous, isolés alors en Asie et à la merci du Viet Minh. Car il ne faut
plus recommencer l'expérience de 1945 – 1954. Soutenus seulement par le
camp occidental nous sommes surs d'être battus par le communisme en
Asie. Il faut avoir le soutien du peuple vietnamien et la sympathie du
Monde Asiatique, pour que l'aide occidentale, dédouanée par la
personalité du Président Ngô, puisse être utile, ayant reçu l'étiquette
asiatique. Cette conception est bien comprise par des hommes
intelligents et au courant des affaires d'ici, tels que M. M Roux
(affaires étrangères), A Risterucci (Etats Associés). Il faut
travailler de manière à ce que des instructions en ce sens qui sont,
j'en suis persuadés, déjà prêtes soient envoyés d'urgence à Saigon.
Le général Ely est un honnête homme, malheureusement il est de nature
inquiet et pessimiste (voir affaire Hinh = armée coupée en deux, guerre
civile et … si le Président touche à Hinh). Ce général est une espèce de
"Docteur Tant Pis" qui voit tout en noir ou plutôt tout en rouge.
Rappelle toi les velléités des communistes qui cherchaient à créer un
état autonome en France à l'époque de la libération et que le
gouvernement français n'a pas hésité à étouffé dans le sang. Il faut
sacrifier quelques uns pour le bien de tous.
La France n'a pas eu jusqu'ici de politique en Indochine. C'est le moment ou jamais d'en avoir une.
A Dieu, cher ami, et merci pour tes conseils et encouragements. Je reste toujours le même sans quoi (les quelques mots de la fin sont illisibles, à moitié coupés lors de la photocopie)
Chuyển ngữ:
Ngày 20 tháng 4
Bénet thân,
Vô cùng cảm ơn mày về lá thư dài ngày 8. Thật ngạc nhiên một cách thú vị khi mày và tao đồng nhất quan điểm trên tất cả mọi mặt
của vấn đề mà chúng ta cùng quan tâm, dù là về những thực tại chính trị
hay về những người trong cuộc, kể cả các anh em tao, ông Khiêm (1) hay
các đồng bào của mày. Cứ như là chúng mình chưa từng chia tay từ 1949
khi còn làm việc với nhau trong cùng một văn phòng dưới sự chăm sóc của
bà xã Simone của mày. Để nói với mày rằng tao hân hoan tới mức độ nào về
sự đồng cảm và đồng ý giữa mày và tao dù cách nhau hàng ngàn cây số.
Đúng là sau khi đã vượt qua được cơn khủng hoảng Hinh (2) chúng ta bắt
đầu giải quyết vấn đề các giáo phái trong những điều kiện không thể nào
thuận lợi hơn. Rất tiếc là chúng ta bị kẹt giữa sự thiếu hiểu biết của
Pháp và sự thiếu kinh nghiệm của Hoa Kỳ: đó là sự đánh giá khác nhau về
cơ hội để đánh tan một cách quả quyết và dứt khoát trở ngại phong kiến
để giải thoát dân tộc Việt Nam xấu số và để gắn bó họ với chúng ta. Từ
ngày ông Chủ Tịch (3) lên cầm quyền, chủ trương lớn của chính phủ là
đập tan hai trở ngại, hai vòng sắt, tách biệt dân tộc Việt Nam với chính
phủ Việt Nam cấp tiến, đó là quân đội "quốc gia" và các "giáo phái".
Chúng ta đã thắng trận đầu, chúng ta hy vọng sẽ thắng trận thứ hai, trận
chung kết sẽ là cuộc bầu cử mà chúng ta tin chắc sẽ thắng lợi. Thêm vào
đó là thời gian "thiêu đốt" không cho phép chúng ta nhởn nhơ trên đường
đi hay làm những thỏa hiệp như thói quen. Thời điểm này vừa duy nhất
vừa quyết định. Nếu chúng ta không thuyết phục được Thế Giới Tự Do giúp
chúng ta vô hiệu hóa đám thực dân ủng hộ bọn phong kiến (4) chống lại
chính quyền quốc gia chúng ta sẽ rơi vào thảm họa. Nhân dân Việt Nam sẽ
thất vọng và vĩnh viễn bỏ rơi chúng ta. Và Thế Gìới Châu Á mà chúng ta
đã vận động từ mấy tháng nay và đã bắt đầu có cảm tình với chúng ta sẽ
quay lưng lại với chúng ta. Lúc đó chúng ta sẽ cô lập và khốn đốn với
Việt Minh. Chớ nên lặp lại kinh nghiệm 1945-1954. Nếu chỉ được Phương
Tây yểm trợ chúng ta chắc chắc sẽ thua cộng sản Châu Á. Phải tranh thủ
được sự hưởng ứng của dân tộc Việt Nam và cảm tình của các nước Châu Á
để viện trợ của Phương Tây, bạch hóa bởi nhân cách của Chủ Tịch Ngô, có
thể hữu hiệu sau khi đã mang nhãn Châu Á. Quan điểm này đã được thấu
hiểu nơi những người thông minh và hiểu rõ hiện tình tại đây, như Ông
M. Roux (bộ ngoại giao) ông Risterucci ( bộ Liên Hiệp Pháp). Phải vận động để những chỉ thị theo chiều hướng này, mà tao chắc chắn là đã chuẩn bị sẵn, được khẩn cấp gửi sang Sài Gòn (5).
Tướng Ely là một người chân thật nhưng bản tính lo âu và bi quan (nhìn
vụ Hinh = quân đội chia đôi, nội chiến v.v. nếu ông Chủ Tịch đụng vào
Hinh…). Ông tướng này là một loại "Bác sĩ Đành Vậy" nhìn cái gì cũng đen
tối hay đúng ra đỏ rực. Mày hãy nhớ lại những toan tính của những người
cộng sản Pháp muốn thành lập một nhà nước tự trị tại Pháp trong giai
đoạn giải phóng (6), toan tính mà chính phủ Pháp đã không ngần ngại đập
tan trong máu. Phải hy sinh một vài người vì lợi ích của mọi người.
Nước Pháp cho tới nay chưa có một chính sách Đông Dương, đây là cơ hội cuối cùng để có một.
Chào mày, thằng bạn thân. Cảm ơn mày về những lời khuyên và khích lệ. Tao vẫn là tao nếu không thì… (một vài chữ cuối cùng không đọc được vì bị cắt khi làm photocopy)
Chú thích:
Phạm Duy Khiêm, anh ruột nhạc sĩ Phạm Duy, đaị sứ Việt Nam tại Pháp vào lúc đó, do ông Diệm bổ nhiệm.
1)
Tướng Nguyễn Văn Hinh (1913-2005), tổng tham mưu trưởng Quân Đội Quốc
Gia Việt Nam từ 1949, mâu thuẫn với thủ tướng Ngô Đình Diệm và bị cất
chức. Ông trở lại phục vụ trong quân đội Pháp và lên đến cấp trung
tướng, tham mưu trưởng lực lượng không quan chiến lược (nguyên tử) Pháp.
2) Ông Ngô Đình Diệm lúc đó là thủ tướng và chủ tịch hội đồng bộ trưởng Quốc Gia Việt Nam.
3)
Ở đây ông Nhu muốn nói tới các nhóm giáo phái Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa
Hảo được Bảo Đại bảo trợ. Sau khi các giáo phái đã bị dẹp thì từ "phong
kiến" được chính quyền Ngô Đình Diệm dùng để chỉ chế độ quân chủ.
4)
Trong cuộc gặp gỡ với tôi cuối tháng 11-2004, với sự hiện diện của hai
anh Trần Minh Châm và Nghiêm Văn Thạch, ông Bénet cho biết những chỉ thị
đó nằm trong kế hoạch giúp ông Diệm gồm thu quyền lực về một mối, trước
hết là giải tán quân đội của các giáo phái.
5)
Giai đoạn sau 1945 khi Paris được giải phóng, lực lượng võ trang của
Đảng Cộng Sản Pháp rút về khu Rambouillet định thành lập một khu tự trị
nhưng bị dẹp tan.
Phụ đính 2:
Thư của ông Jacques Bénet gửi bà Ngô Đình Nhu
Jacques Bénet
5 rue Vavin, 75006 Paris Paris le 18 octobre 2004
Chère Madame,
Depuis
que je suis passé vous voir chez vous, voici une dizaine de jours, j'ai
remis la main dans "mes" papiers sur une lettre que vous m'avez
adressée le 22 août 1976, vraisemblablement de Rome.
Je
joins à ce courrier l'original de cette lettre. Vous y faites état de
ce que je vous ai annoncé que j'avais retrouvé le dossier confié par
vous en 1963.
En
1976 j'étais fonctionnaire en poste au Ministère de la Coopération et
j'ai pris mon congé annuel en juillet ou en août. J'avais repris mon
service au plutard au 1er Septembre.
Il
n'est pas pensable que votre fils Quỳnh ne soit pas parvenu à me
joindre pour que je lui remette ce dossier chez moi ou à Suffren.
Et,
pourtant, il ne semble pas vous être parvenu ce dossier puisque vous le
demandez maintenant. Mystère total, dans le quel je ne suis pas le seul
impliqué!
Je comprends maintenant que ce dossier que je vous ai remis la semaine dernière n'ait pu vous satisfaire.
Il
a vraisemblablement été constitué par des copies de lettre anciennes,
datées de la période 1963 – 1964, mais que vous m'avez remises par la
suite en même temps que les copies de lettres à Andréotti et au Pape qui
ont été écrites par vous plus tardivement.
Dans
la période de 1976 à 1980, où je venais de me remarier, j'ai envoyé en
Normandie quelques meubles, objets, livres ou documents, parce que je
remettais à neuf mon appartement et que les documents, que je vous ai
remis l'autre jour, après les avoir récupérés en Normandie ont dû
m'apparaître dans ces années 1976 -1980 comme des documents "pour
mémoire" sans utilisation immédiate possible et ne contenant pas
d'nformations "brûlantes".
Vous
m'avez dit lors de cette dernière recontre que vous aviez trouvé
"désinvolte" la réponse que je vous aurais faite lorsque, pour la
première fois, vous m'avez redemandé le dossier confié fin 1963.
Je
ne me rappelle pas avoir eu envers vous, cette fois là ou une autre,
une attitude de désinvolture. Mais si vous en gardez le souvenir c'est
que je vous ai paru alors effectivement "désinvolte". Et je vous pris de
bien vouloir m'en excuser.
Mais
j'ai remarqué depuis de nombreuses années que, de votre côté, vous avez
fait montre d'une désinvolture certaine, vis-à-vis du président Ngô
Đình Diệm, de votre mari, de moi-même et de quelques autres en ne vous
souciant jamais de savoir comment le futur président Ngô Đình Diệm avait
accédé au pouvoir en 1954!
La
Providence, certes oui, car Dieu gouverne toutes choses, mais il se
sert bien souvent de modestes relais humains pour concrétiser ses
desseins.
Or
votre mari, Ngo Dinh Nhu, a eu l'intuition géniale - dictée bien sûr
par la Providence - que le moment était arrivé, en mars 1954 pendant la
bataille de Đien Bien Phu, d'essayer de convaincre le gouvernement
français d'alors (gouvernement Laniel – Bidault – Reynaud), qui
disposait encore de quelques atouts déterminants quant au destin de
l'ancienne Indochine pour permettre d'urgence la venue au pouvoir de son
frère, Monsieur Ngo Đinh Diem, personnalité nationaliste vietnamienne
d'une réputation sans tâche et d'une notoriété évidente, afin de prendre
la tête du gouvernement vietnamien non communisé.
Du
même coup, Nhu décide l'envoi à Paris pour facilité la prise de contact
avec le gouvernement français son camarade du combat nationaliste Tran
Chanh Thanh – revenu totalement de ses illusions communistes. La mission
première que Nhu donne à Tran Chanh Thanh est de me joindre afin que je
l'aide à faciliter cette prise de contact. Nhu, que j'ai reçu à la
maison à Paris en 1949 avant le décès de ma première femme, savait que
je disposais de relations avec divers hommes politique français.
Une lettre personnelle de Nhu m'annonce d'ailleur la mission de Thành.
Bien
que vous n'aimiez guerre Trân Chánh Thành, ce dernier s'est révélé
être, lui aussi, un homme "providentiel", dans la chaine de ceux qui ont
permis, en fin de compte, à Monsieur Ngo Dinh Diem d'être reçu
successivement par le président Laniel et par le Ministre des Affaires
étrangères Georges Bidault.
Il
s'est trouvé, entre temps, que j'ai été moi aussi,
"providentiellement", un maillon indispensable dans la chaine qui a
conduit à ce fait.
Ma
confiance totale en mon cher ami Nhu et la certitude acquise par moi
qu'il était plus que temps, en ce moment de 1954, de voir conférer au
Vietnam non communiste son indépendance totale, jointes à l'évidence que
Monsieur Ngo Đinh Diem était bien l'homme "providentiel" pour assumer
la charge de diriger cette indépendance, m'avaient déterminé à agir.
Et
j'ai pu passer toute ma conviction à un de mes meilleurs amis français,
Antoine Ahon, qui avait ses entrées personnelles au cabinet au
Président René Laniel par le directeur de cabinet, le préfet Germain
Vidal, et auprès du Secrétaire d'Etat à la Présidence Bougenot passé
directement sous les ordres du Président Laniel. Mon ami Ahon,
d'autrepart, connaissait bien personnellement le Ministre des Affaires
Etrangères Georges Bidault.
Homme
"providentiel" à son tour, Antoine Ahon a été l'introducteur parfait
de Trân Chánh Thành auprès des deux personalités précitées du cabinet du
Président Laniel et auprès de Geoges Bidault.
L'intelligence,
la fidélité et le sens de l'efficacité de Trần Chánh Thành des ont fait
l'essentiel du reste. En plusieurs entretiens espacés de la fin mars à
la mi mai 1954 il a eu loisir d'exposer la situation d'alors au Vietnam,
d'un authentique point de vue nationaliste vietnamien, et les qualités
exceptionnelles de Monsieur Ngô Đình Diêm pour assurer le pouvoir au
Vietnam du Sud en ces temps particulièrement critiques.
C'est
ainsi que le Président Laniel et le Ministre Bidault accueillirent,
dans les meilleures dispositions d'esprit Monsieur Ngô Đinh Diêm.
Et,
"providentiellement" encore, ces deux personalités responsables, après
hésitation et réflexion, comprirent que, à l'approche de la chute de
leur gouvernement, il s'imposait pour sauver le Vietnam en grand danger
d'engloutissement dans le Monde Communiste, et tenter de la sorte de
préserver les futures relations franco-vietnamiennes d'obtenir d'urgence
de l'empereur Bao Đai, encore officiellement Chef d'Etat du Vietnam la
nomination de Ngo Đinh Diem à la tête du gouvernement vietnamien.
Cela
fut fait par décret de Bao Đai pris au début de juin 1954, quelques
jour seulement avant que le gouvernement Laniel – Bidault – Reynaud
fasse place au gouvernement Mendès France.
Cela
fut possible parce que le gouvernement français d'alors disposait
vis-à-vis de Bao Đai, particulièrement de divers moyens de pression
déterminants.
Et
cette décision, qui fut majeure et "providentielle" pour le Vietnam
n'aurait jamais été prise par le gouvernement Mendès France totalement
sous l'influence de courants politiques français décidés à s'en tenir à
la lettre des accords de Genève de juin 1954 qui envisageaient la tenue
d'élections législatives étendues à tout le Vietnam, Nord et Sud.
De
telles élections auraient abouti, selon toute vraisemblance, à
installer le pouvoir communiste, dès ce moment là sur tout le Vietnam,
fermant toute perspective à Ngo Đinh Diem d'accéder un jour au pouvoir.
Ce
dernier étant tellement convaincu de cela qu'il est venu chez moi me
remercier de mes efforts et de ceux de mon ami Ahon, au cours des
quelques jours qui ont séparé la sortie du décret de Bao Đai de son
départ en avion pour rejoindre son poste à Saigon
J'en
suis toujours à m'étonner, chère Madame, que vous n'ayez jamais cherché
à connaître le processus de l'ascension au pouvoir du Président Ngo
Đinh Diem.
Il
est vrai que mon ami Nhu était particulièrement discret. Mais une
épouse décidée ne parvient-elle pas généralement à percer les secrets
entretenus par son mari?
Je vous prie d'agréer, chère Madame, l'expression de ma très respectueuse considération.
(Signature de Jacques Bénet)
Ci-joint votre lettre du 22 août 1976
Chuyển ngữ:
Jacques Bénet
5 rue Vavin, 75006 Paris Paris le 18 octobre 2004
Thưa Bà,
Từ
khi tới gặp Bà tại tư gia cách đây khoảng mười hôm tôi đã tìm lại được
trong những giấy tờ "của tôi" một thư Bà đã gửi cho tôi ngày 22 tháng
8-1976, có lẽ từ Rome.
Tôi
gửi kèm theo thư này bản chính của thư đó. Bà viết trong thư rằng tôi
đã thông báo với Bà là đã tìm lại được tập hồ sơ Bà đã giao cho tôi năm
1963.
Năm 1976 tôi còn là công chức ở bộ Hợp Tác và tôi nghỉ hè tháng 7 hoặc tháng 8. Tôi đi làm trở lại trễ lắm là ngày 01 tháng 9.
Khó
có thể nghĩ là anh Quỳnh con trai Bà lại không thể liên lạc được với
tôi để tôi trao lại tập hồ sơ này, tại nhà tôi hay tại Suffren.
Và
dầu vậy tập hồ sơ này đã không tới tay Bà, bằng chứng là bây giờ mà còn
hỏi tôi. Bí ẩn hoàn toàn, trong đó tôi không phải là người liên can duy
nhất!
Bây giờ tôi hiểu là tập hồ sơ mà tôi đã trao cho Bà tuần trước đã không làm Bà hài lòng.
Nó
có lẽ gồm những bản sao của các thư cũ, viết trong giai đoạn 1963 –
1964, mà Bà đã trao cho tôi sau đó cùng lúc với các bản sao các thư gửi
Andreotti và Đức Giáo Hoàng do Bà viết sau đó.
Trong
những năm từ 1976 đến 1980, lúc tôi vừa tái hôn, tôi đã gửi đi
Nordmandie một số giường tủ, vật dụng, sách và tài liệu vì tôi tân trang
căn hộ của tôi, và những tài liệu mà tôi trao lại Bà hôm trước sau khi
tìm thấy tại Nordmandie có vẻ là những tài liệu mà trong giai đoạn 1976
-1980 tôi cho là chỉ "giữ để nhớ" chứ không có công dụng tức khắc nào.
Và không chứa đựng một dữ kiện "nóng hổi" nào.
Bà
đã nói với tôi trong lần gặp cuối rằng Bà thấy tôi đã trả lời Bà một
cách "vô tư" khi lần đầu tiên Bà yêu cầu tôi hoàn lại tập hồ sơ mà Bà đã
nhờ tôi giữ hộ năm 1963.
Tôi
không nhớ đã có thái độ vô tư đối với Bà lúc đó hay một lúc nào khác.
Nhưng nếu Bà vẫn còn nhớ như vậy thì chắc là tôi phải đã tỏ ra vô tư. Và
tôi xin Bà thứ lỗi cho.
Tuy
nhiên tôi đã nhận thấy từ nhiều năm rồi chính Bà tỏ ra rất vô tư đối
với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đối với chồng Bà, đối với chính tôi và đối
với vài người khác khi không bao giờ chịu tìm hiểu vào năm 1954 vị tổng
thống tương lai Ngô Đình Diệm đã lên cầm quyền như thế nào.
Dĩ
nhiên là do Chúa muốn (1), bởi vì Chúa điều khiển tất cả, nhưng Người
cũng dùng những con người làm những trung gian khiêm tốn để cụ thể hóa ý
muốn của Người.
Vì
thế mà chồng Bà, Ngô Đình Nhu, đã có trực giác thiên tài, chắc chắn do
Chúa khiến, là đã đến lúc, vào tháng 3-1954, khi trận Điện Biên Phủ đang
diễn ra, để thử thuyết phục chính phủ Pháp (chính phủ Laniel –Bidault –
Reynaud) lúc đó vẫn còn một vài con bài quyết định đối với số phận của
Đông Dương cũ để khẩn cấp đưa anh mình là ông Ngô Đình Diệm, một nhân
vật quốc gia không vẩn gợn và có uy danh rõ rệt, lên cầm dầu chính phủ
Việt Nam không cộng sản.
Cùng
lúc Nhu quyết định gửi sang Paris người chiến hữu quốc gia của mình là
Trần Chánh Thành - vừa hoàn toàn hồi phục khỏi những ảo tưởng cộng sản-
để tiếp xúc với chính phủ Pháp. Sứ mạng đầu tiên mà Nhu giao phó cho
Trần Chánh Thành là tìm gặp tôi để nhờ tôi giúp bắt liên lạc. Nhu đã
từng tới nhà tôi năm 1949 trước khi người vợ đầu của tôi qua đời và biết
rằng tôi có quan hệ với nhiều chính khách Pháp.
Nhu có viết thư riêng cho tôi báo trước chuyến công tác của Thành.
Dù
Bà không ưa Trần Chánh Thành, ông này đã tỏ ra là một người "Chúa ban"
trong chuỗi sự kiện đã khiến ông Ngô Đình Diệm tuần tự được thủ tướng
Laniel và bộ trưởng ngoại giao Bidault tiếp.
Tình
cờ là trong thời gian đó chính tôi cũng "do ý Chúa" đã là một mắt xich
không có không được trong diễn tiến dẫn tới kết quả này.
Lòng
tin hoàn toàn vào bạn Nhu và nhận định chắc chắn là tình thế đã quá
chín muồi vào thời điểm đó, 1954, để trả lại độc lập hoàn toàn cho Việt
Nam, cùng với điều hiển nhiên là ông Ngô Đình Diệm đúng là nhân vật
"Chúa khiến" để lèo lái nền độc lập này, đã thúc đẩy tôi quả quyết hành
động.
Và
tôi đã chia sẻ được lòng tin của mình với một trong những người bạn
Pháp thân nhất của tôi, ông Antoine Ahon, một người có liên hệ mật
thiết với văn phòng Chủ Tịch René Laniel (1), qua trung gian của ông
chủ nhiệm văn phòng, tổng đốc Germain Vidal, và có liên hệ với bộ trưởng
tại phủ chủ tịch Bougenot, trực tiếp dưới quyền Chủ Tịch Laniel. Anh
bạn Ahon, mặt khác cũng quen thân với bộ trưởng ngoại giao Georges
Bidault.
Cũng
là một người "Chúa khiến", Antoine Ahon đã là người trung gian tuyệt
vời cho Trần Chánh Thành với hai nhân vât kể trên (Vidal và Bougenot)
trong văn phòng Chủ Tịch Laniel và Geoges Bidault.
Trí
thông minh, sự trung thành và giác quan hiệu quả của Trần Chánh Thành
đã là hoàn thành cốt lõi phần còn lại. Qua nhiều trao đổi trong thời
gian từ cuối tháng 3 đến giữa tháng 5-1954 ông ta đã trình bày tình
trạng Việt Nam lúc đó với nhãn quan quốc gia chân chính cũng như những
đức tính xuất chúng của ông Ngô Đình Diệm để cầm quyền tại miền Nam Việt
Nam trong giai đoạn khẩn trương này.
Chính vì thế mà chủ tịch Laniel và bộ trưởng Bidault đã tiếp ông Ngô Đình Diệm một cách thuận lợi.
Và
cũng nhờ "ơn Chúa", hai vị lãnh đạo này, sau khi đắn đo suy nghĩ đã
hiểu rằng, vào lúc chính quyền chính phủ của họ sắp đổ, bắt buộc phải
cứu Việt Nam đang đứng trước hiểm họa lớn là bị nuốt trửng vào Thế Giới
Cộng Sản, và phải cố cứu vãn quan hệ Pháp Việt bằng cách khẩn cấp khiến
Hoàng Đế Bảo Đại, lúc đó vẫn còn là quốc trưởng Việt Nam chính thức, bổ
nhiệm Ngô Đình Diệm đứng đầu chính phủ.
Điều
này đã được thực hiện bằng dụ (sắc luật) của Bảo Đại đầu tháng 6-1954,
chỉ vài ngày trước khi chính phủ Laniel –Bidault – Reynaud bàn giao
quyền hành cho chính phủ Mendès France.
Điều này đã có thể thực hiên được vì chính quyền Pháp lúc đó có nhiều phương tiện để gây áp lực quyết định trên Bảo Đại (2).
Và
quyết định tối quan trọng và "theo ý Chúa" này đối với Việt Nam chắc
chắn đã không thể có với một chính phủ Mendès France hoàn toàn chịu ảnh
hưởng của khuynh hướng chính trị Pháp đòi thực hiện y chang Hiệp Định
Genève tháng 6-1954, theo đó sẽ có tổng tuyển cử trên toàn cõi Việt Nam,
Bắc cũng như Nam.
Cuộc
tổng tuyển cử này hầu như chắc chắn sẽ dẫn tới kết quả là thiết lập chế
độ cộng sản trên cả nước Việt Nam và triệt tiêu mọi hy vọng cầm quyền
của Ngô Đình Diệm.
Ông
này đã hiểu rất rõ như vậy nên ông đã đến nhà tôi để cảm ơn tôi và bạn
Ahon của tôi trong khoảng thời gian vài ngày từ khi ông được Bảo Đại bổ
nhiệm đến khi ông lên máy bay về Sài Gòn nhận chức.
Tôi luôn luôn ngạc nhiên tại sao Bà chưa bao giờ bận tâm tìm hiểu tiến trình đã đưa Tổng Thống Ngô Đình Diệm lên cầm quyền.
Đúng
là anh bạn Nhu của tôi rất kín đáo. Nhưng một người vợ quyết tâm không
lẽ lại không khám phá ra được những bí mật của chồng mình?
Xin gửi Bà lời chào rất trân trọng.
(ký tên Jacques Bénet)
Đính kèm thư của Bà ngày 22 tháng 8-1976
Chú thích:
1) Bà Ngô Đình Nhu tin rằng việc ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền là hoàn toàn do ý Chúa.
2) Nước Pháp lúc đó theo chế độ đại nghị, thử tướng là chủ tịch hội đồng bộ trường.
3)
Khi tôi hỏi ông trong bữa ăn trưa cùng với hai anh Trần Minh Châm và
Nghiêm Văn Thạch áp lực nào thì Jacques Bénet mỉm cười nói rằng Bảo Đại
ăn chơi cờ bạc nên luôn luôn có nhiều vấn đề, kể cả tài chính.